icon icon icon

Xây dựng và bảo vệ thị trường nội địa ngành công nghiệp cơ khí

Đăng bởi Huynh Thang vào lúc 15/12/2021

Thị trường nội địa của ngành cơ khí Việt Nam không hề nhỏ bé. Vấn đề là các doanh nghiệp làm cơ khí nội địa và chính phủ phải tìm mọi cách để xây dựng và bảo vệ thị trường cơ khí nội địa và coi đó như tài nguyên quý giá của đất nước.



Xây dựng và bảo vệ thị trường nội địa ngành công nghiệp cơ khí
Công nhân Công ty Cơ khí Ðông Anh vận hành dây chuyền sản xuất.
Cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như đảm bảo khả năng tham gia sâu, có hiệu quả của nền kinh tế vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu, góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững, dài hạn.
Theo thống kê, Việt Nam hiện có hơn 25.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động và có kết quả kinh doanh, chiếm gần 30% tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo, với doanh thu thuần là hơn 1.465.000 tỷ đồng.
Thế mạnh ngành Cơ khí Việt Nam tập trung ở 3 phân ngành gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy, cơ khí gia dụng - dụng cụ ô tô và phụ tùng ô tô. Đây là những phân ngành chủ yếu hướng tới xuất khẩu hoặc phục vụ doanh nghiệp FDI. Tức là tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. 3 phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cơ khí cả nước.
Sau hơn 3 thập niên phát triển, công nghiệp cơ khí nội địa Việt Nam đã chế tạo được một số phân ngành sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trong nội địa và khu vực. Đó là các phân ngành sản phẩm chế tạo kết cấu thép, sản xuất hàng phi tiêu chuẩn, chế tạo một số máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ nhu cầu ngành điện lực, dầu khí, khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế tạo một số máy canh tác, chế biến, bảo quản nông lâm hải sản, lắp ráp ô tô, đóng tàu viễn dương, tầu chở khách và vận tải thủy, xử lý môi trường và sản xuất một số hàng tiêu dùng phục vụ dân sinh... Tuy nhiên, giá trị gia tăng và hiệu quả hoạt động ngành cơ khí vẫn còn thấp.
Lĩnh vực cơ khí tiếp tục nhận được sự quan tâm của nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã và đang tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đón đầu xu thế, các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong lĩnh vực cơ khí chế tạo đang có xu hướng tăng đầu tư dự án sản xuất công nghệ cao.
Có thể thấy, thị trường nội địa của cơ khí Việt Nam không hề nhỏ bé. Vấn đề là các doanh nghiệp làm cơ khí nội địa và chính phủ phải tìm mọi cách để xây dựng và bảo vệ thị trường cơ khí nội địa và coi đó như tài nguyên quý giá của đất nước.
Tới đây, Việt Nam sẽ triển khai nhiều dự án lớn quan trọng của quốc gia có tổng mức đầu tư lớn như: Quy hoạch điện 8 giai đoạn từ 2021 đến 2030 khoảng 133 tỷ USD, đường sắt tốc độ cao 50-60 tỷ USD, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các tuyến đường sắt nội đô, các công trình giao thông, thủy lợi, dầu khí, kinh tế biển, đóng tàu, ô tô, xe máy…
Khi khảo sát tại các Công ty Cổ phần Ô tô Trường Hải, Công ty Cổ phần Xe lửa Gia Lâm thuộc Tổng công ty đường sắt Việt Nam, các doanh nghiệp này cho biết ngoài các toa xe khách, xe hàng cho đường sắt quốc gia, nhà máy hoàn toàn có thể tự đóng được các toa xe nhẹ cho đường sắt đô thị (metro) nếu được yêu cầu. Và gần đây, việc tắc nghẽn cung ứng toàn cầu thiếu “công” cho các tàu vận tải, các doanh nghiệp cơ khí trong nước hoàn toàn có thể đảm nhiệm được.
Song thực tế, doanh nghiệp cơ khí Việt Nam khó có thể tham gia trực tiếp vào các dự án, công trình trong nước và lép vế ngay trên "sân nhà". Các chính sách phát triển thị trường chưa rõ ràng, không có những yêu cầu bắt buộc về tỷ lệ nội địa hóa trong công trình, dự án cho nên thị trường nội địa không được bảo vệ và để nhiều đối tác nước ngoài lấn sân.
Để phát huy nội lực của doanh nghiệp cơ khí, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, phát triển ngành Cơ khí cũng như củng cố, phát huy kinh nghiệm của đội ngũ chuyên gia, cán bộ quản lý, máy móc thiết bị, theo các chuyên gia kinh tế, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích để các đơn vị này có thể tiếp tục tham gia vào các dự án lớn trong thời gian tới. Nếu thực hiện thành công một vài dự án, các doanh nghiệp sẽ tích lũy đủ năng lực để cạnh tranh với các tập đoàn công nghiệp nước ngoài tại Việt Nam cũng như vươn ra thị trường khu vực.
Theo đó, Nhà nước nên quy định chặt chẽ tỷ lệ hợp lý trong khối lượng và giá trị dự án để đảm bảo dành cho doanh nghiệp cơ khí nội địa tham gia như thông lệ quốc tế, không nên cái gì cũng đi mua của nước ngoài mà khuyến khích nhận chuyển giao công nghệ để tự làm. Như vậy, các doanh nghiệp cơ khí lớn có thể tham gia. 
Nhà nước cũng có thể ưu đãi cho các doanh nghiệp đóng tàu về thuế và chính sách hỗ trợ đóng đổi tàu mới cho các doanh nghiệp vận tải để có thể tham gia vào thị trường logistic thúc đẩy xuất khẩu khi thị trường đã đủ lớn và tăng trưởng nhanh. Không để thị phần này gần hết cho nước ngoài mà không thể chủ động được.  
Bên cạnh đó, cần kiểm soát chặt chẽ việc cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu Việt Nam/ASEAN gắn với tỷ lệ nội địa hóa ở cả khu vực doanh nghiệp FDI cũng như cơ khí nội địa tránh tình trạng chuyển giá trong doanh nghiệp FDI nâng khống giá trị sản xuất trong nước khi thực sự chưa đạt yêu cầu để hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Muốn xây dựng và bảo vệ thị trường nội địa cho cơ khí, Nhà nước phải nhanh chóng ban hành và chỉ đạo thực hiện dùng hàng rào kỹ thuật, xuất xứ hàng hóa… như các nước đã và đang chủ động thực hiện. Cần xem xét việc bình đẳng các ưu đãi đầu tư giữa doanh nghiệp cơ khí nội địa và doanh nghiệp FDI. Nhà nước cần tạo nhiều đơn hàng đầu tư công thông qua đấu thầu cho doanh nghiệp cơ khí chế tạo nội địa. Chủ đầu tư các dự án đầu tư công có quy mô lớn ở Việt Nam phải có phụ lục nêu rõ những phần việc để doanh nghiệp nội địa tham gia đấu thầu thực hiện. 
Việt Hà - Văn SơnCơ khí là ngành công nghiệp nền tảng, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như đảm bảo khả năng tham gia sâu, có hiệu quả của nền kinh tế vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu, góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững, dài hạn.
Theo thống kê, Việt Nam hiện có hơn 25.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động và có kết quả kinh doanh, chiếm gần 30% tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo, với doanh thu thuần là hơn 1.465.000 tỷ đồng.
Thế mạnh ngành Cơ khí Việt Nam tập trung ở 3 phân ngành gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy, cơ khí gia dụng - dụng cụ ô tô và phụ tùng ô tô. Đây là những phân ngành chủ yếu hướng tới xuất khẩu hoặc phục vụ doanh nghiệp FDI. Tức là tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. 3 phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cơ khí cả nước.
Sau hơn 3 thập niên phát triển, công nghiệp cơ khí nội địa Việt Nam đã chế tạo được một số phân ngành sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trong nội địa và khu vực. Đó là các phân ngành sản phẩm chế tạo kết cấu thép, sản xuất hàng phi tiêu chuẩn, chế tạo một số máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ nhu cầu ngành điện lực, dầu khí, khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế tạo một số máy canh tác, chế biến, bảo quản nông lâm hải sản, lắp ráp ô tô, đóng tàu viễn dương, tầu chở khách và vận tải thủy, xử lý môi trường và sản xuất một số hàng tiêu dùng phục vụ dân sinh... Tuy nhiên, giá trị gia tăng và hiệu quả hoạt động ngành cơ khí vẫn còn thấp.
Lĩnh vực cơ khí tiếp tục nhận được sự quan tâm của nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã và đang tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đón đầu xu thế, các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong lĩnh vực cơ khí chế tạo đang có xu hướng tăng đầu tư dự án sản xuất công nghệ cao.
Có thể thấy, thị trường nội địa của cơ khí Việt Nam không hề nhỏ bé. Vấn đề là các doanh nghiệp làm cơ khí nội địa và chính phủ phải tìm mọi cách để xây dựng và bảo vệ thị trường cơ khí nội địa và coi đó như tài nguyên quý giá của đất nước.
Tới đây, Việt Nam sẽ triển khai nhiều dự án lớn quan trọng của quốc gia có tổng mức đầu tư lớn như: Quy hoạch điện 8 giai đoạn từ 2021 đến 2030 khoảng 133 tỷ USD, đường sắt tốc độ cao 50-60 tỷ USD, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các tuyến đường sắt nội đô, các công trình giao thông, thủy lợi, dầu khí, kinh tế biển, đóng tàu, ô tô, xe máy…
Khi khảo sát tại các Công ty Cổ phần Ô tô Trường Hải, Công ty Cổ phần Xe lửa Gia Lâm thuộc Tổng công ty đường sắt Việt Nam, các doanh nghiệp này cho biết ngoài các toa xe khách, xe hàng cho đường sắt quốc gia, nhà máy hoàn toàn có thể tự đóng được các toa xe nhẹ cho đường sắt đô thị (metro) nếu được yêu cầu. Và gần đây, việc tắc nghẽn cung ứng toàn cầu thiếu “công” cho các tàu vận tải, các doanh nghiệp cơ khí trong nước hoàn toàn có thể đảm nhiệm được.
Song thực tế, doanh nghiệp cơ khí Việt Nam khó có thể tham gia trực tiếp vào các dự án, công trình trong nước và lép vế ngay trên "sân nhà". Các chính sách phát triển thị trường chưa rõ ràng, không có những yêu cầu bắt buộc về tỷ lệ nội địa hóa trong công trình, dự án cho nên thị trường nội địa không được bảo vệ và để nhiều đối tác nước ngoài lấn sân.
Để phát huy nội lực của doanh nghiệp cơ khí, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, phát triển ngành Cơ khí cũng như củng cố, phát huy kinh nghiệm của đội ngũ chuyên gia, cán bộ quản lý, máy móc thiết bị, theo các chuyên gia kinh tế, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích để các đơn vị này có thể tiếp tục tham gia vào các dự án lớn trong thời gian tới. Nếu thực hiện thành công một vài dự án, các doanh nghiệp sẽ tích lũy đủ năng lực để cạnh tranh với các tập đoàn công nghiệp nước ngoài tại Việt Nam cũng như vươn ra thị trường khu vực.
Theo đó, Nhà nước nên quy định chặt chẽ tỷ lệ hợp lý trong khối lượng và giá trị dự án để đảm bảo dành cho doanh nghiệp cơ khí nội địa tham gia như thông lệ quốc tế, không nên cái gì cũng đi mua của nước ngoài mà khuyến khích nhận chuyển giao công nghệ để tự làm. Như vậy, các doanh nghiệp cơ khí lớn có thể tham gia. 
Nhà nước cũng có thể ưu đãi cho các doanh nghiệp đóng tàu về thuế và chính sách hỗ trợ đóng đổi tàu mới cho các doanh nghiệp vận tải để có thể tham gia vào thị trường logistic thúc đẩy xuất khẩu khi thị trường đã đủ lớn và tăng trưởng nhanh. Không để thị phần này gần hết cho nước ngoài mà không thể chủ động được.  
Bên cạnh đó, cần kiểm soát chặt chẽ việc cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu Việt Nam/ASEAN gắn với tỷ lệ nội địa hóa ở cả khu vực doanh nghiệp FDI cũng như cơ khí nội địa tránh tình trạng chuyển giá trong doanh nghiệp FDI nâng khống giá trị sản xuất trong nước khi thực sự chưa đạt yêu cầu để hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Muốn xây dựng và bảo vệ thị trường nội địa cho cơ khí, Nhà nước phải nhanh chóng ban hành và chỉ đạo thực hiện dùng hàng rào kỹ thuật, xuất xứ hàng hóa… như các nước đã và đang chủ động thực hiện. Cần xem xét việc bình đẳng các ưu đãi đầu tư giữa doanh nghiệp cơ khí nội địa và doanh nghiệp FDI. Nhà nước cần tạo nhiều đơn hàng đầu tư công thông qua đấu thầu cho doanh nghiệp cơ khí chế tạo nội địa. Chủ đầu tư các dự án đầu tư công có quy mô lớn ở Việt Nam phải có phụ lục nêu rõ những phần việc để doanh nghiệp nội địa tham gia đấu thầu thực hiện. 
Việt Hà - Văn Sơn
VIẾT BÌNH LUẬN CỦA BẠN: